Khi nào Việt Nam từ chối dẫn độ cho nước ngoài?

Trong bối cảnh Việt Nam đang xúc tiến hoàn thiện Dự thảo Luật Dẫn độ nhằm thay thế, cập nhật các quy định về tương trợ tư pháp hiện hành, việc xem xét kỹ lưỡng Điều 35 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 về các trường hợp từ chối dẫn độ trở nên đặc biệt quan trọng. Bài viết này sẽ phân tích các quy định hiện hành, bình luận về những điểm hợp lý cũng như những hạn chế cần được cân nhắc khi xây dựng luật mới.

Điều 35 Luật Tương trợ tư pháp hiện hành quy định:

Điều 35. Từ chối dẫn độ cho nước ngoài

1. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam;

b) Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người bị yêu cầu dẫn độ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác;

c) Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Tòa án của Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;

d) Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì lý do có khả năng bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị;

đ) Trường hợp yêu cầu dẫn độ có liên quan đến nhiều tội danh và mỗi tội danh đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước yêu cầu dẫn độ nhưng không đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật này

2. Ngoài những trường hợp từ chối dẫn độ theo quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ không phải là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;

b) Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam từ chối dẫn độ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có trách nhiệm thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước yêu cầu dẫn độ.

1. Các trường hợp bắt buộc từ chối dẫn độ: Bảo vệ chủ quyền và quyền con người

Khoản 1 Điều 35 quy định năm trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam bắt buộc phải từ chối dẫn độ. Việc từ chối nếu người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam thể hiện nguyên tắc bảo hộ quốc tịch, một thông lệ phổ biến trong pháp luật quốc tế và là sự khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia. Quy định từ chối dẫn độ khi người bị yêu cầu đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc vì lý do hợp pháp khác bảo đảm rằng không ai bị truy cứu hình sự bất hợp pháp. Ngoài ra, khi người bị yêu cầu đã bị xét xử hoặc vụ án đã bị đình chỉ ở Việt Nam về cùng hành vi, pháp luật yêu cầu từ chối nhằm tuân thủ nguyên tắc “một tội không bị xét xử hai lần” (ne bis in idem).

Đặc biệt, việc bảo vệ người có nguy cơ bị truy bức vì lý do phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị thể hiện cam kết của Việt Nam đối với các nguyên tắc nhân quyền quốc tế. Cuối cùng, yêu cầu dẫn độ sẽ bị từ chối nếu không đáp ứng đầy đủ điều kiện pháp lý cần thiết. Nhìn chung, các trường hợp này phù hợp với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, thực tiễn áp dụng có thể gặp khó khăn do quy định chưa cụ thể tiêu chí đánh giá “khả năng bị truy bức”.

2. Các trường hợp có thể từ chối dẫn độ:

Khoản 2 Điều 35 quy định các trường hợp có thể từ chối dẫn độ theo đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, Việt Nam có thể từ chối nếu hành vi bị yêu cầu dẫn độ không phải là tội phạm theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hoặc nếu người bị yêu cầu đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam. Đây là sự linh hoạt cần thiết nhằm bảo vệ trật tự pháp luật nội địa và đảm bảo nguyên tắc “tội phạm kép” (double criminality) trong luật dẫn độ quốc tế.

Tuy vậy, Luật hiện hành chưa quy định rõ ràng về tiêu chí đánh giá hoặc quy trình ra quyết định trong các trường hợp “có thể từ chối”, dễ dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền. Việc thiếu hướng dẫn chi tiết có thể tạo ra những lỗ hổng về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Từ phân tích trên, có thể thấy Điều 35 Luật Tương trợ tư pháp hiện hành đã thiết lập khung pháp lý cơ bản cho việc từ chối dẫn độ, hài hòa với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Dẫn độ, Việt Nam cần cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá “khả năng bị truy bức”, xây dựng hướng dẫn chi tiết về thủ tục ra quyết định từ chối và cân nhắc bổ sung cơ chế phản biện nội bộ để bảo đảm tính minh bạch và thuyết phục của quyết định. Ngoài ra, có thể cân nhắc bổ sung nguyên tắc “hoặc dẫn độ, hoặc xét xử” (aut dedere aut judicare) để xử lý các trường hợp Việt Nam từ chối dẫn độ nhưng vẫn cần đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

———————-

Liên hệ Luật sư tư vấn:
Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.
1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Giám đốc Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội, 
email: vtpthanh@tlalaw.vn;
2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội; 
email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
Website: https://tlalaw.vn/
Hotline: 0906246464

TTT

Bài liên quan