BẢN ÁN SỐ 16/2019/HS-ST: ĐẤT GIAO CHO CÁ NHÂN QUẢN LÝ NHƯNG THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY THIỆT HẠI ĐẾN TÀI SẢN CỦA NHÀ NƯỚC

1. Nguồn Bản án

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019

– Bị cáo: A Đ; tên gọi khác là A Đ1;  Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 0/12;  Dân tộc: Xê Đăng;  giới tính: Nam;  quốc tịch: Việt Nam;  Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12 tháng 7 năm 2019 đến ngày 03 tháng 9 năm 2019 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Kon Tum; người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Thanh P; sinh năm 1979; nơi công tác: Phòng Tài nguyên & Môi trường huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum (Có mặt tại phiên tòa).

Người phiên dịch: A T; sinh năm 1992; nơi công tác: Ủy ban nhân dân xã Măng Bút, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum (Có mặt tại phiên tòa).

2. Tóm tắt Bản án

  • Bối cảnh: Năm 2006, A Đ được UBND huyện Kon Plông giao 22,3 ha đất lâm nghiệp để quản lý, bảo vệ và được hưởng lợi từ rừng theo Khế ước số 103/KU-UB về việc “Giao đất lâm nghiệp có rừng tự nhiên thuộc đối tượng rừng phòng hộ cho hộ gia đình cá nhân quản lý, sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp”. Bị cáo có trách nhiệm bảo vệ vốn rừng, đất rừng và nhận tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng.
  • Hành vi: Tháng 4/2019, A Đ phát hiện rừng bị khai thác trái phép nhưng không báo cáo cơ quan chức năng. Kết quả kiểm tra hiện trường xác định tại khu vực do A Đ quản lý có 22 cây gỗ Pơ mu nhóm IIA bị cắt hạ trái phép, tổng khối lượng 38,589 m³, trị giá 715.420.800 đồng.
  • Vật chứng và trách nhiệm dân sự: Số gỗ bị khai thác trái phép được ghi nhận bằng hình ảnh, chưa tận thu và sẽ xử lý trong vụ án khác. UBND huyện yêu cầu bồi thường 715 triệu đồng, nhưng do chưa xác định được giá trị tài sản thu hồi nên Tòa tách phần dân sự để giải quyết sau theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

3. Nhận định của Tòa án

  • Tố tụng hợp pháp: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không có khiếu nại từ bị cáo hay nguyên đơn dân sự.
  • Hành vi phạm tội: Đủ yếu tố cấu thành tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” theo khoản 2 Điều 179 BLHS 2015.
  • Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
  • Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 179 BLHS, cấm bị cáo làm công việc liên quan đến quản lý, bảo vệ rừng trong 02 năm.
  • Vật chứng: 22 cây gỗ Pơ mu nhóm IIA bị khai thác trái phép (38,589 m³) được ghi nhận, xử lý trong vụ án “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” do Hạt kiểm lâm huyện Kon Plông khởi tố vụ án ngày 07/6/2019.
  • Trách nhiệm dân sự: Do chưa xác định được phần thiệt hại ròng sau khi tận thu số gỗ, Tòa án tách phần dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đủ căn cứ (Điều 30 BLTTHS).
  • Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

4. Đánh giá về Bản án

Thiếu trách nhiệm là hành vi của người có nghĩa vụ quản lý tài sản nhưng không thực hiện đầy đủ hoặc đúng quy định, dẫn đến mất mát, hư hỏng, lãng phí, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước.

Căn cứ theo khoản 2 Điều 84 Luật Lâm nghiệp năm 2017 có quy định:

2. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất để trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ có nghĩa vụ quy định tại Điều 74 của Luật này.

Theo đó, cá nhân được Nhà nước giao đất để trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ có các nghĩa vụ dưới đây:

1. Quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng bền vững theo Quy chế quản lý rừng, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Thực hiện quy định về theo dõi diễn biến rừng.

4. Bảo tồn đa dạng sinh học rừng, thực vật rừng, động vật rừng.

6. Chấp hành sự quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bị cáo vi phạm một trong các nghĩa vụ trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hậu quả của tội phạm xảy ra, gây thiệt hại tài sản của Nhà nước có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên.

Đối chiếu với bản án này, bị cáo không trực tiếp tham gia nhưng với tư cách là người được giao quản lý, bảo vệ, trông coi và hưởng lợi ích từ vốn rừng, đất rừng,  việc không báo cáo cho Cơ quan chức năng để kịp thời ngăn chặn, xử lý tội phạm là hành vi lơ là, thiếu trách nhiệm nghiêm trọng, gây tổn thất lớn cho ngân sách Nhà nước, giá trị thiệt hại là 715.420.800 đồng số gỗ Pơ mu – loài quý hiếm nhóm IIA.

Mức độ và tính chất: Bị cáo có hành vi vi phạm do lỗi vô ý, xuất phát từ sự cẩu thả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, song không có động cơ vụ lợi hay hưởng lợi cá nhân. Việc buông lỏng trách nhiệm đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên quốc gia và trật tự trong công tác quản lý rừng. Tuy nhiên, bị cáo không tham gia, tiếp tay hay cấu kết với các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi khai thác trái phép. Tòa án xem xét các yếu tố này là tình tiết giảm nhẹ quan trọng trong quá trình xét xử hình sự.

Trách nhiệm hình sự: Tòa án tuyên phạt 15 tháng tù giam là mức án trung bình trong khung hình phạt (từ 01 năm đến 05 năm theo khoản 2 Điều 179 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 11/VBHN-VPQH năm 2025 ).

Điều 179. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (dân tộc thiểu số, trình độ thấp, ăn năn hối cải), nhưng Tòa vẫn áp dụng hình phạt tù, thể hiện xu hướng nghiêng về tính răn đe và phòng ngừa chung, đặc biệt trong bối cảnh quản lý tài sản công ở vùng sâu vùng xa còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp tương tự có thể được áp dụng cải tạo không giam giữ hoặc án treo nếu thiệt hại đã được khắc phục và bị cáo có nhân thân tốt.

Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 179:

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Việc cấm bị cáo làm công việc liên quan đến quản lý, bảo vệ rừng trong thời hạn 02 năm được xem là hình phạt bổ sung hợp lý, sát với tính chất hành vi đã xảy ra. Đây là biện pháp mang tính phòng ngừa, không nhằm trừng phạt cá nhân, mà ngăn ngừa nguy cơ tái diễn hành vi thiếu trách nhiệm trong môi trường tương tự, đồng thời góp phần bảo đảm kỷ cương trong công tác bảo vệ tài nguyên rừng.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Đối chiếu với quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì:

“Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”

Việc tách phần dân sự ra để giải quyết sau thể hiện sự linh hoạt trong áp dụng tố tụng, phù hợp với quy định pháp luật khi chưa đủ căn cứ xác định chính xác giá trị thiệt hại ròng. Cách xử lý này giúp tránh làm chậm tiến độ thi hành án hình sự, đồng thời vẫn bảo đảm được quyền lợi chính đáng của Nhà nước và các bên liên quan trong quá trình giải quyết dân sự tiếp theo.

———————————

Liên hệ Luật sư tư vấn:

Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.

1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Đoàn Luật sư Hà Nội,

email: vtpthanh@tlalaw.vn

2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Đoàn Luật sư Hà Nội;

email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội

Website: https://tlalaw.vn/

Hotline: 0906246464

TTQ

Bài liên quan