Án lệ số 33/2020/AL: Đất giao cho cá nhân nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài

1. Nguồn Án lệ và tóm tắt bản án

1.1. Nguồn Án lệ

Quyết định giám đốc thẩm số 34/2018/DS-GĐT ngày 26-6-2018 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án “Kiện đòi tài sản nhà, đất và tiền bồi thường hỗ trợ Khi Nhà nước thu hồi đất” tại tỉnh Hưng Yên giữa nguyên đơn là bà Bùi Thị P, anh Lê Ngọc T1, chị Lê Thị Thanh X với bị đơn là ông Lê Ngọc T2

1.2. Tóm tắt bản án

Cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T, quê ở Hưng Yên, sinh sống và mất tại Lạng Sơn, có một con trai duy nhất là ông Lê Ngọc H (chồng bà Bùi Thị P). Năm 1973, cụ U xin cấp 1.079m² đất ở quê. Năm 1976, ông H xây nhà trên đất đó cho hai cụ về quê ở, sau đó hai cụ chuyển đi nơi khác. Năm 1977, em trai cụ U là cụ C1 cho con trai là ông Lê Ngọc T2 ở nhờ tại nhà đất này.

Năm 1985, bà P kết hôn với ông H. Hai cụ U và T lần lượt mất vào năm 1994 và 1995, không để lại di chúc. Bà P cho biết có giữ giấy tờ giao đất nhưng bị mất do lũ năm 2008. Cùng năm đó, ông T2 xin ông H ủy quyền nhận tiền đền bù do Nhà nước thu hồi đất. Tháng 6-2009, ông H qua đời, không để lại di chúc nhưng dặn mẹ con bà P đòi lại đất.

Hiện tại, bà P và các con yêu cầu gia đình ông T2 trả lại toàn bộ nhà, đất và 398.638.000 đồng tiền đền bù.

2. Lập luận của bị đơn

Nội dungChi tiết
Nguồn gốc đấtBố tôi – cụ Lê Ngọc C1 – nhờ anh trai là cụ Lê Ngọc U đứng tên xin đất hộ năm 1974.
Người sử dụng thực tế ban đầuCụ C1 (bố tôi) là người trực tiếp nhận và quản lý, sử dụng đất.
Xây dựng và sử dụng đấtNăm 1975, cụ C1 cho vợ chồng tôi ra làm nhà và sinh sống tại đây.
Vai trò của gia đình cụ UGia đình cụ U chưa bao giờ nhận đất là của mình và không xây dựng công trình nào trên đất.
Nguồn gốc tài sản trên đấtToàn bộ nhà cửa, công trình do vợ chồng tôi tạo lập.
Kê khai sử dụng đấtNăm 1998, tôi đứng tên kê khai và sử dụng đất.
Bồi thường khi thu hồi đất (2008)Gia đình tôi nhận hơn 300 triệu đồng tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Cam kết của ông H (10/4/2008)Ông H viết giấy xác nhận toàn bộ đất đã giao cho tôi sử dụng, gia đình ông không có ý kiến.
Quan điểm bị đơnKhông chấp nhận yêu cầu đòi lại đất và tiền từ bà P và các con.
Thông tin từ UBND xã Đ1
– Diện tích đất 19811.073m², thửa số 117, tờ bản đồ số 15 (bản đồ 299).
– Người đứng tên (1986)Lê Ngọc U1 (xác minh là Lê Ngọc U – người đứng tên hộ cho cụ C1).
– Diện tích sử dụng năm 19981.177,6m² (gồm cả phần hành lang đường 38B).
– Người đứng tên (1998)Tôi – Lê Ngọc T2 – đứng tên chủ sử dụng toàn bộ các thửa đất.

3. Phân tích bản án

Bộ luật Dân sự quy định người chiếm hữu bất động sản không có căn cứ pháp luật được công nhận tư cách chủ bất động sản như sau:

“Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Theo đó, Bộ luật Dân sự quy định người chiếm hữu bất động sản không có căn cứ pháp luật được công nhận tư cách chủ bất động sản đó nếu đáp ứng bốn điều kiện: (i) ngay tình, (ii) liên tục, (iii) công khai, (iv) trong thời hạn 30 năm.

Theo nhận định của Toà án:

Mặc dù cụ U là người được cấp đất, nhưng sau khi được cấp đất cụ U đã không sử dụng đất mà cho ông T2 sử dụng từ năm 1975 đến nay. Quá trình sử dụng đất, do đất cụ U được cấp là đất vũng nên gia đinh cụ C1 và ông T2 đã phải thuê người vượt lấp để tôn nền, xây dựng và sửa chữa nhà nhiều lần, cụ U và ông H đều biết việc vượt lấp, sửa chữa và xây dựng nhà nhưng không có tranh chấp. Ủy ban nhân dân xã Đ1 và những người làm chứng là những người sống ở địa phương đều xác định cụ U và ông H không về ở, không xây dựng nhà, thỉnh thoảng về chơi và ở nhà cụ C1 ở trong làng. Sau Khi vợ chồng cụ U chết, ông H là con duy nhất của cụ U cũng có bản cam kết xác nhận cụ U không về ở được nên giao lại quyền sử dụng thửa đất trên cho ông T2, gia đình không có ý kiến gì về thửa đất đó. Như vậy, cụ U là người được giao đất, nhưng cụ U không sử dụng mà cho ông T2 quản lý, sử dụng thửa đất này từ sau Khi cụ U được giao đất (năm 1974) đến nay. Quá trình sử dụng đất, ông T2 đã xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai và nộp thuế quyền sử dụng đối với thửa đất này nên theo quy định của pháp luật đất đai thì ông T2 thuộc trường hợp được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc cụ U không sử dụng đất nhưng có tên trên Bản đồ giải thửa 299 và sổ mục kê năm 1982 là không chính xác và không phải là căn cứ để xác định cụ U là chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất này.

Từ các tình tiết trong vụ án và lập luận của bị đơn, có thể thấy rằng mặc dù cụ Lê Ngọc U là người đứng tên được cấp đất, nhưng từ khi được giao đất (năm 1974) đến nay, chính ông Lê Ngọc T2 – cháu của cụ U – là người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất một cách liên tục, công khai, ngay tình và không có tranh chấp trong thời gian dài (gần 35 năm). Việc sử dụng đất được thể hiện qua các hành vi cụ thể như: xây dựng, cải tạo nhà cửa, kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, nộp thuế và nhận bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Hơn nữa, ông H (con trai cụ U) trước khi mất còn lập văn bản cam kết xác nhận việc sử dụng đất thuộc về ông T2, và gia đình ông H không có ý kiến gì. Cơ quan chính quyền địa phương và các nhân chứng cũng xác nhận ông T2 là người sử dụng đất thực tế, ổn định.

Vì vậy, Tòa án xác định rằng ông Lê Ngọc T2 đã đáp ứng đầy đủ điều kiện xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự, đồng thời đủ điều kiện được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai hiện hành. Yêu cầu đòi lại nhà, đất và tiền đền bù của bà Bùi Thị P và các con là không có căn cứ pháp luật và không được chấp nhận.

————————————————-

Liên hệ Luật sư tư vấn:
Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.
1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Giám đốc Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội, 
email: vtpthanh@tlalaw.vn;
2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội; 
email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
Website: https://tlalaw.vn/
Hotline: 0906246464

Nguyễn Hương Huyền

Bài liên quan