TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA BẢN ÁN SỐ 22/2025/DS-ST NGÀY 06/08/2025 TẠI TỈNH VĨNH LONG

1. Thông tin các bên

– Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T và Bà Võ Thị Thúy L.

Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre (nay là ấp B, xã H, tỉnh Vĩnh Long).

– Đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn: Ông Huỳnh Minh T1 – theo Hợp đồng ủy quyền ngày ngày 11/11/2024).

– Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc A.

Địa chỉ: Ấp K, xã H, huyện  G, tỉnh Bến Tre (nay là ấp K, xã G1, tỉnh Vĩnh Long).

– Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Hữu T2 – theo Hợp đồng ủy quyền ngày 15/4/2025).

2. Tóm tắt nội dung vụ án

– Ngày 16/08/2019 âm lịch, ông T và bà L có cho bà A vay số tiền 250.000.000 đồng. Hai bên có lập “Giấy mượn tiền” đề ngày 16/8/2019 âm lịch. Thời hạn vay là 03 tháng, lãi suất thỏa thuận miệng là 2%/tháng.

– Ngày 16/11/2019 âm lịch, hết thời hạn vay nhưng bà A không trả tiền gốc.

– Từ tháng 8/2019 âm lịch đến tháng 2/2023 âm lịch, bà A vẫn tiếp tục trả tiền lãi hàng tháng trên số tiền gốc 250.000.000 đồng. Việc trả lãi không có giấy tờ xác nhận, không có bảng kê, không có nhân chứng.

– Tháng 03/2023, bà A trả một phần tiền gốc còn lại là 235.000.000 đồng. Sau tháng 4/2023 âm lịch thì ngừng trả lãi.

– Ngày 29/02/2024, bà A viết “Giấy xác nhận” thừa nhận còn nợ ông T và bà L số tiền gốc là 235.000.000 đồng và đã đóng lãi đến tháng 4/2023 âm lịch. Trong giấy xác nhận có ghi thêm nội dung: “…và 2 vợ chồng là đã chấp thuận cho tôi là số tiền đó và ngưng không còn đóng và tính lời lãi nữa…”. Tuy nhiên, ông T và bà L không ký xác nhận nội dung này.

– Từ tháng 5/2023 âm lịch đến tháng 8/2025, ông T và bà L nhiều lần yêu cầu bà A trả số tiền còn nợ nhưng bà A không thực hiện.

– Ông T và bà L khởi kiện yêu cầu bà A trả số tiền gốc còn lại là 235.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 04/6/2023 đến ngày 04/8/2025 với mức lãi suất 1,66%/ tháng theo quy định pháp luật.

– Bà A yêu cầu tính lại lãi đã đóng  đối  với  số  tiền  250.000.000  đồng  từ  ngày  16/8/2019  âm  lịch  đến hết ngày 29/02/2024 thì ngưng không đóng theo Giấy xác nhận đề ngày 29/02/2024, khi đóng lãi các bên không có lập giấy tờ.

3. Nhận định của Tòa án

Tòa án xác định bà A đã đóng lãi từ tháng 8/2019 âm lịch đến tháng 4/2023 âm lịch với mức 2%/tháng. Tổng số tiền lãi đã đóng là 230.000.000 đồng. Theo quy định tại Điều 468 BLDS, mức lãi suất tối đa là 20%/năm (~1,66%/tháng). Phần lãi vượt quá quy định là 38.333.000 đồng. Bà A yêu cầu khấu trừ phần lãi vượt mức vào tiền gốc. Tòa chấp nhận, xác định số tiền gốc còn lại là 196.667.000 đồng.

– Về tiền lãi chậm trả từ ngày 04/06/2023 đến 04/08/2025: Tòa án chấp nhận yêu cầu tính lãi của ông T và bà L với mức 1,66%/tháng trên số tiền gốc 196.667.000 đồng. Tổng số tiền lãi phát sinh là 84.881.000 đồng.

– Quyết định của Tòa án:

+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T bà L.

+ Buộc bà A thanh toán cho ông T, bà L cả tiền gốc lẫn lãi là 281.548.000 đồng.

4. Bình luận về cách giải quyết vụ án

Về hiệu lực hợp đồng vay: Mặc dù chỉ được lập bằng tay và không có công chứng nhưng vẫn hợp lệ, phù hợp với quy định tại Điều 117 và Điều 119 BLDS 2015. Giấy xác nhận nợ ngày 29/02/2024 có chữ ký của bà A, chứng minh sự tự nguyện và thừa nhận nghĩa vụ vay và trả nợ.

Về lãi suất và cách xử lý phần lãi: Tòa đã xác định chính xác về phần lãi suất vượt quá 20%/ năm đã vi phạm pháp luật theo Điều 468 BLDS 2015. Theo hướng dẫn tại Điều 9 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận lãi suất cao hơn mức lãi suất được pháp luật quy định thì nó sẽ không có hiệu lực, sẽ được trừ vào số tiền nợ gốc, nếu còn lại thì sẽ hoàn trả cho bên vay.

Ở đây, Tòa khấu trừ phần lãi vượt mức vào tiền gốc là cách giải quyết hợp lý, nhưng do bên vay vẫn còn nợ chưa tất toán xong nên phần lãi không thể được hoàn trả. Điều này đảm bảo quyền lợi của bị đơn mà vẫn giữ nguyên nghĩa vụ thanh toán hợp pháp.

Về việc giám định chữ ký trên Giấy xác nhận nợ: Đã đảm bảo tính khách quan, công bằng và minh bạch. Xác định đúng là do bà A tự nguyên ký và phát sinh nghĩa vụ, chứ không hề có sự đe dọa, ép buộc hay làm giả chữ ký.

Tuy nhiên, có nhiều vấn đề thực sự quan trọng mà Tòa án chưa làm rõ hoặc bỏ qua, cần được xem xét kỹ lưỡng và đầy đủ hơn, vì nó có thể sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cả nguyên đơn và bị đơn.

Thứ nhất, về thời hiệu khởi kiện. Đây là vấn đề thực sự rất quan trọng. Theo vụ án, hợp đồng vay có thời hạn 03 tháng, bắt đầu nghĩa vụ trả nợ từ tháng 11/2019. Tuy nhiên, theo Điều 429 BLDS 2015, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự là 03 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, tức là hết thời hạn mà bên kia không trả nợ.

Tính đến thời điểm khởi kiện là năm 2025, thời hiệu đã vượt quá 03 năm. Tuy nhiên, Tòa không phân tích yếu tố này, cũng không làm rõ việc bị đơn có hành vi “thừa nhận nghĩa vụ” hay không. Giấy xác nhận nợ ngày 29/02/2024 do bị đơn viết có thể được xem là hành vi làm mới thời hiệu, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP.

Tuy nhiên, Tòa không viện dẫn quy định nào để xác định thời hiệu còn hiệu lực. Việc bỏ qua phân tích thời hiệu khởi kiện là một thiếu sót đặc biệt nghiêm trọng, vì nếu thời hiệu đã hết mà không có căn cứ gia hạn, thì yêu cầu khởi kiện sẽ không được chấp nhận.

Thứ hai, về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả nợ và tính lãi. Tòa án xác định thời điểm bắt đầu tính lãi từ ngày 04/06/2023 âm lịch, nhưng không nêu rõ căn cứ pháp lý hoặc điều kiện nào để dẫn tới việc lựa chọn mốc thời gian này. Trong khi đó, hợp đồng vay ghi rõ thời hạn vay là 03 tháng kể từ ngày 16/08/2019 âm lịch, tức nghĩa vụ trả nợ đã phát sinh từ gần cuối tháng 08/2019.

Việc không làm rõ thời điểm vi phạm nghĩa vụ khiến việc tính lãi trở nên thiếu cơ sở, có thể dẫn đến việc tính sai số tiền lãi phải trả.

Nếu lãi được tính muộn hơn thời điểm vi phạm thực tế, nguyên đơn sẽ bị thiệt hại vì mất quyền hưởng lãi trong thời gian dài. Ngược lại, nếu lãi bị tính sớm mà chưa có yêu cầu trả nợ, bị đơn sẽ phải chịu khoản lãi không thỏa đáng. Đây là điểm mấu chốt ảnh hưởng đến quyền lợi tài chính của cả hai bên.

Thứ hai, về hành vi trả lãi kéo dài của bị đơn. Bà A đã phải trả lãi liên tục từ năm 2019 đến tháng 04/2023 âm lịch. Tòa án lại không phân tích hành vi này có phải là gia hạn hợp đồng hay xác lập nghĩa vụ mới không.

Nếu bên vay tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sau khi hợp đồng hết hạn, có thể hiểu là các bên đã gia hạn hợp đồng ngầm. Việc này ảnh hưởng trực tiếp đến thời hiệu khởi kiện, thời điểm tính lãi và bản chất pháp lý của quan hệ vay.

Nếu hành vi trả lãi được xem là xác lập một nghĩa vụ mới, thì thời hiệu khởi kiện sẽ được tính lại, bắt đầu từ thời điểm đó. Ngược lại, nếu không xem xét yếu tố này, Tòa có thể bỏ qua khả năng hợp đồng đã được gia hạn, dẫn đến việc áp dụng sai thời điểm tính lãi và thời hiệu để thực hiện quyền khởi kiện.

Thứ ba, lãi suất thực tế và dấu hiệu cho vay nặng lãi. Bản án đã không làm rõ tổng số tiền lãi bị đơn đã trả trong suốt thời gian vay, cũng như không đánh giá bản chất của giao dịch trên có dấu hiệu cho vay nặng lãi không.

Tòa án cũng không xác minh việc tính lãi có minh bạch, có bảng sao kê hay có chứng cứ giao nhận hay không. Việc trả lãi kéo dài, không có chứng từ, và vượt mức quy định là dấu hiệu điển hình của hành vi cho vay nặng lãi. Nếu có dấu hiệu hình sự, hợp đồng vay có thể bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả xét xử, cũng như cả quyền lợi của nguyên đơn và bị đơn.

Thứ tư, khả năng trả nợ thực tế của bị đơn. Tòa án tuyên bà A phải trả cả gốc lẫn lãi cho nguyên đơn với số tiền là 281.548.000 đồng. Mặt khác, lại không đánh giá khả năng tài chính, thu nhập tài sản hiện bà đang sở hữu có đủ để chi trả số tiền này không. Không có thông tin nào về hoàn cảnh gia đình, thu nhập, y tế hoặc khả năng thi hành án.

Theo Luật Thi hành án dân sự, nếu người phải thi hành án không có khả năng tài chính, việc cưỡng chế thi hành sẽ kéo dài, gây thiệt hại cho cả hai bên. Nguyên đơn có thể thắng kiện nhưng không thu hồi được tiền, còn bị đơn có thể bị cưỡng chế tài sản không cần thiết.

Tòa án cần làm rõ hoàn cảnh của bị đơn để xác định các biện pháp thi hành án phù hợp, như trả góp, hoãn thi hành, hoặc miễn giảm theo quy định.

Thứ năm, về việc giao nhận tiền vay ban đầu. Giấy vay tiền chỉ ghi số tiền, hoàn toàn không có xác nhận giao nhận, không nhân chứng, không có chứng cứ đã chuyển khoản hay giao nhận tiền mặt. Tòa án đã không làm rõ vấn đề trên. Việc không làm rõ chứng cứ giao nhận tiền khiến bản án có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị giám đốc thẩm, nên cần phải xác minh rõ ràng việc có hay không giao tiền, có thể bằng việc tìm sơ ở hoặc mâu thuẫn trong lời khai nhân chứng, sao kê ngân hàng, hoặc các tài liệu khác liên quan.

Theo nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự, bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh. Nếu bị đơn phủ nhận việc nhận tiền, nguyên đơn sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh, ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hợp đồng vay.

Thứ sáu, về các loại lãi quá hạn bị đơn cần chi trả thêm. Tòa án có nhắc tới vấn đề bị đơn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền phải nộp theo mức lãi suất quy định. Tuy nhiên, lại không xác định đầy đủ, tính toán rõ số tiền này để nguyên đơn, bị đơn xác định số tiền mình được hưởng và số tiền phải nộp lại cho bên kia.

Vì vậy, theo Điều 5 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, bị đơn cần phải thanh toán thêm các chi phí sau:

+ Lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả: toàn bộ tiền gốc từ năm 2019, nên không có phần gốc trong hạn.

+ Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả = [ 196.667.000 ]  x  [1,66% ]  x  3 tháng = 9.778.000 đồng.

+ Lãi trên nợ lãi chưa trả = [ 84.881.000 ]  x  [1,66% ]  x  3 tháng = 4.225.000 đồng.

à Tổng tiền phải trả là 14.003.000 đồng. Như vậy, bị đơn sẽ phải thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 295.551.000 đồng.

———————————

Liên hệ Luật sư tư vấn:

Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.

1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Đoàn Luật sư Hà Nội,

email: vtpthanh@tlalaw.vn

2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Đoàn Luật sư Hà Nội;

email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội

Website: https://tlalaw.vn/

Hotline: 0906246464

TTQ

Bài liên quan