Nghị quyết hết hiệu lực vẫn được áp dụng – Quyết định giám đốc thẩm số 10/2024/KDTM-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

Về mặt nguyên tắc, một văn bản quy phạm pháp luật chỉ được viện dẫn, áp dụng khi nó còn có hiệu lực thi hành, hoặc đã hết hiệu lực nhưng pháp luật quy định là phải được áp dụng do quan hệ pháp luật xảy ra tại thời điểm nó còn hiệu lực. Tuy nhiên Quyết định giám đốc thẩm số 10/2024/KDTM-GĐT ngày 06/6/2024 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách vận dụng pháp luật tương đối linh hoạt, theo đó một văn bản dù đã hết hiệu lực song vẫn có thể áp dụng trong những điều kiện đặc biệt.

  1. Nội dung vụ án

– Theo đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn:

Ngày 21/12/2018, Bên A là Công ty TNHH một thành viên thức ăn thuỷ sản M (Công ty M) – bị đơn – ký hợp đồng mua cá tra nguyên liệu số 108/HĐMB/2Q18-M (Hợp đồng số 108) với Bên B là ông P – nguyên đơn – và ông T1 để mua cá tra nguyên liệu tại Ao số 11. Các bên thoả thuận: sau khi bắt xong ao cá 07 ngày, Bên A thanh toán cho Bên B 50% giá trị hợp đồng, trả cho ông P. Phần 50% còn lại Bên A sẽ được cấn trừ công nợ để Bên B lấy thức ăn thuỷ sản của Bên A theo Hợp đồng thức ăn số 59.DT/2017/MK-TTB ngày 18/12/2017. Giá trị hợp đồng là 15.802.216.000 đồng, 50% là 7.901.108.000 đồng Công ty M phải trả cho ông P.

Ngày 11/01/2019, Công ty M chuyển cho ông P 1.000.000.000 đồng. Ngày 25/01/2019 Công ty M chuyển tiếp cho ông P 1.000.000.000 đồng. Như vậy tính đến 25/01/2019, Công ty M còn nợ ông P 5.901.108.000 đồng. 50% còn lại ông T1 đã nhận đủ (thông qua cấn trừ công nợ).

Do đó ông P khởi kiện Công ty M, yêu cầu trả số tiền còn nợ theo Hợp đồng số 108 là 5.901.108.000 đồng và yêu cầu tính lãi chậm trả từ 25/01/2019 đến 06/01/2023, tổng cộng 8.252.218.000 đồng.

– Theo trình bày của bị đơn:

Công ty M đã thanh toán đủ 5.901.108.000 đồng vào ngày 31/01/2019 thông qua tiếp tục cấn trừ theo Hợp đồng số 59. Cụ thể, ngày 31/01/2019, ông T1 đề nghị Công ty M lập Phụ lục hợp đồng số 01 cho Hợp đồng số 108 thay đổi hình thức thanh toán: Công ty chỉ trả cho ông P và ông T1 2.000.000.000 đồng bằng tiền, còn lại sẽ cấn trừ vào phần nợ thức ăn. Cùng ngày, các bên đã lập biên bản thoả thuận cấn trừ công nợ.

Ông T1 đã giả mạo chữ ký của ông P trong Phụ lục 01 và các biên bản cấn trừ công nợ, đề nghị chuyển hồ sơ sang Cơ quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự về hành vi chiếm đoạt số tiền 5.901.108.000 đồng của ông P và ông T1.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 06/01/2023, Toà án nhân dân huyện N chấp nhận một phần yêu cầu của ông P, buộc Công ty M trả cho ông P số tiền mua thức ăn thuỷ sản còn thiếu là 1.950.554.000 đồng và tiền phạt vi phạm hợp đồng là 156.044.000 đồng. Bản án bị kháng cáo toàn bộ.

Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 08/2023/KDTM-PT ngày 14/7/2023, Toà án nhân dân tỉnh Đ sửa một phần bản án, buộc Công ty M trả ông P số tiền 5.901.108.000 đồng và 472.088.600 đồng lãi.

Công ty M đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm, đề nghị Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh huỷ toàn bộ cả 02 bản án để xét xử lại. Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị.

2. Nhận định của Toà án

– Liên quan đến nội dung kháng nghị: “Toà án hai cấp xác định “Tranh chấp hợp đồng mua bán” giữa Công ty M với ông P và ông T1 là tranh chấp về kinh doanh, thương mại hoàn toàn không đúng theo quy định của pháp luật … xác định sai quan hệ tranh chấp dẫn đến áp dụng không đúng quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.”

Theo khoản 1 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, “Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

  1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận…”

Khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 quy định “Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án” giữ nguyên quy định như khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2004 (chỉ bỏ phần liệt kê cụ thể từ điểm a đến điểm o).

Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004” quy định về nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự: “b. Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”.

Mặc dù Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP chỉ có hiệu lực hướng dẫn đối với BLTTDS năm 2004 và hiện nay đã hết hiệu lực thi hành, BLTTDS năm 2015 chưa có hướng dẫn mới. Tuy nhiên, nếu quy định của BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015 không khác nhau thì phần hướng dẫn của luật cũ vẫn có ý nghĩa tham khảo cho việc áp dụng luật đang có hiệu lực.

Trong vụ án này, Công ty M là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh ký hợp đồng mua bán thức ăn thuỷ sản cho ông T1 và ông P để hai ông nuôi cá số lượng lớn, sau đó bán lại cá cho Công ty M. Mặc dù ông T1 và ông P không có đăng ký kinh doanh, nhưng việc nuôi cá bán lại đều có mục đích lợi nhuận, do đó Toà án hai cấp xác định mối quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán” và xác định là vụ án kinh doanh, thương mại là có căn cứ.

– Về nội dung tranh chấp: Toà án xác định việc Công ty M không phát hiện ông T1 giả mạo chữ ký của ông P để làm các văn bản giả mạo cấn trừ nợ là lỗi của Công ty M, không phải lỗi của ông P. Không chấp nhận nội dung kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm.

3. Bình luận

Trong Quyết định giám đốc thẩm số 10/2024/KDTM-GĐT, Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.HCM đã vận dụng linh hoạt khi dẫn chiếu đến Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP, một văn bản đã hết hiệu lực, để giải thích và làm rõ ý chí lập pháp của quy định trong BLTTDS 2015, khi xác định quan hệ tranh chấp là “tranh chấp kinh doanh, thương mại”.

Dù nghị quyết này không còn hiệu lực, nhưng do nội dung của nó không mâu thuẫn với quy định hiện hành (BLTTDS 2015), và vì chưa có văn bản hướng dẫn thay thế, nên việc viện dẫn vẫn có thể chấp nhận được về mặt phương pháp luận, nếu chỉ nhằm giải thích luật hiện hành – chứ không áp dụng trực tiếp các quy định của văn bản đã hết hiệu lực. Cách tiếp cận này cho thấy tính linh hoạt và thực tiễn trong hoạt động xét xử, nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật còn khoảng trống hướng dẫn thi hành.

Tuy nhiên, việc áp dụng văn bản hết hiệu lực cần hết sức thận trọng và chỉ nên giới hạn trong phạm vi giải thích khái niệm, làm rõ tinh thần luật hiện hành. Nếu không có sự phân định rạch ròi, sẽ dẫn đến nguy cơ tuỳ tiện áp dụng văn bản pháp luật cũ, ảnh hưởng đến tính dự báo và ổn định của pháp luật.

———————-

Liên hệ Luật sư tư vấn:
Công ty Luật TNHH TLAlà một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.
1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Đoàn Luật sư Hà Nội;
Email: vtpthanh@tlalaw.vn;
2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Đoàn Luật sư Hà Nội; 
Email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
Website: https://tlalaw.vn/
Hotline: 0906246464

TTT

Bài liên quan