HẠN CHẾ VỀ TỶ LỆ SỞ HỮU CỔ PHẦN CỦA CỔ ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG?

Trong một hệ thống ngân hàng nơi dòng vốn được ví như mạch máu nuôi dưỡng nền kinh tế, việc ai nắm quyền kiểm soát cổ phần không chỉ là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp, mà còn là ẩn số tác động đến sự ổn định tài chính quốc gia. Nhận diện rõ thách thức này, Văn bản hợp nhất Luật Các tổ chức tín dụng 2024 số 29/VBHN-VPQH đã được ban hành, có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, với điểm nhấn là quy định siết chặt tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông trong ngân hàng, giúp phân tán quyền lực và tránh việc một nhóm cổ đông chi phối toàn bộ hoạt động ngân hàng.

1. Hình thức tổ chức tín dụng là công ty cổ phần

Khoản 38 Điều 4 Văn bản hợp nhất Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã đưa ra cách hiểu về định nghĩa của tổ chức tín dụng là: Tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.

Tuy nhiên, chỉ có hai loại tổ chức tín dụng được phép thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Căn cứ theo Điều 6 bao gồm:

  • Ngân hàng thương mại trong nước (trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này và trường hợp thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc được phê duyệt).
  • Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước

Theo Điều 60 của Văn bản hợp nhất số 59/VBHN-VPQH, tổ chức tín dụng là công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Mặt khác, cũng có thể phát hành cổ phần ưu đãi, người sở hữu những cổ phần ưu đãi này được gọi chung là cổ đông ưu đãi. Bao gồm các loại sau:

  • Cổ phần phổ thông: Bắt buộc phải có, cổ đông phổ thông có các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật tại Điều 61 và Điều 62.
  • Cổ phần ưu đãi cổ tức (khoản 3 Điều 60): Đây là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm.

Tổng giá trị mệnh giá của cổ phần ưu đãi cổ tức tối đa bằng 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.

Có các quyền và nghĩa vụ như cổ đông phổ thông, trừ quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

  • Cổ phần ưu đãi biểu quyết (khoản 4 Điều 60): Chỉ có tổ chức Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ nhưng giới hạn trong 03 năm kể từ ngày tổ chức tín dụng được cấp giấy phép, sau đó chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.

Có toàn bộ quyền và nghĩa vụ như cổ phần phổ thông trừ quyền chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.

2. Hạn chế sở hữu cổ phần của cổ đông

Bắt đầu từ ngày 1/7/2024, tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông thuộc các tổ chức tín dụng có sự thay đổi như sau:

1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu cổ phần vượt quá 05% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.

2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu cổ phần vượt quá 10% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.

Tỷ lệ sở hữu cổ phần quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này bao gồm cả số cổ phần sở hữu gián tiếp.

So với các quy định cũ tại Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi bởi khoản 14 Điều 1 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2017) thì:

  • Đối với trường hợp cổ đông là cá nhân thì tỷ lệ sở hữu cổ phần ngân hàng vẫn được giữ nguyên ở mức 5% vốn điều lệ
  • Đối với trường hợp cổ đông là tổ chức, tỷ lệ cổ phần cổ đông được sở hữu đã bị giảm xuống đáng kể, từ mức không quá 15% xuống không quá 10% vốn điều lệ.

3. Kiểm soát sở hữu chéo và người có liên quan

Văn bản hợp nhất 29/VBHN-VPQH đã mở rộng định nghĩa về “Người có liên quan” không chỉ giới hạn ở cá nhân hoặc tổ chức có quan hệ trực tiếp mà còn bổ sung các đối tượng có ảnh hưởng gián tiếp tới cổ đông lớn, căn cứ tại điểm h và g khoản 24 Điều 4.

Theo khoản 3 Điều 63, cổ đông lớn và người có liên quan cũng bị áp dụng giới hạn về tỷ lệ sở hữu cổ phần:

3. Không được sở hữu cổ phần vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Cổ đông lớn của một ngân hàng và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 05% vốn điều lệ trở lên của một ngân hàng khác.

So sánh với quy định trước, tỷ lệ cổ phần mà cổ đông ngân hàng được sở hữu không còn duy trì ở mức 20% mà giảm xuống mức không vượt quá 15% vốn điều lệ.   

4. Trường hợp không áp dụng quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần

Khoản 4 Điều 63 nhận định rõ các trường hợp được liệt kê dưới đây sẽ không áp dụng các quy định về tỷ lệ cổ phần mà cổ đông sở hữu trong ngân hàng:

a) Sở hữu cổ phần tại công ty con, công ty liên kết là tổ chức tín dụng quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 111 của Luật này;

b) Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hóa;

c) Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 7 Điều này.

5. Mua lại cổ phần của cổ đông

5.1 Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020

Điều 132 và Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2024 có quy định rõ về trường hợp nếu  công ty cổ phần muốn mua lại cổ phần của cổ đông thì có thể áp dụng một trong hai hình thức sau:

– Mua lại theo yêu cầu của cổ đông

  • Nếu cổ đông phản đối Nghị quyết tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ cổ đông
  • Ra thông báo bằng văn bản trong vòng 10 ngày kể từ khi Nghị quyết được thông qua
  • Mua lại với giá thị trường hoặc theo Điều lệ công ty trong 90 ngày. Hoặc yêu cầu một tổ chức thẩm định định giá.

– Mua lại theo quyết định của công ty

  • Không quá 30% tổng số cổ phần phổ thông đã bán
  • Hội đồng quản trị có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần từng loại đã bán trong 12 tháng
  • Giá mua cổ phần phổ thông không cao hơn giá thị trường tại thời điểm mua lại

5.2 Theo quy định tại Văn bản hợp nhất Luật Các tổ chức tín dụng 2024

Điều 65 Văn bản hợp nhất Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đặt ra điều kiện chặt chẽ để tổ chức tín dụng có thể mua lại cổ phần như sau:

“Tổ chức tín dụng chỉ được mua lại cổ phần của cổ đông nếu sau khi thanh toán hết số tiền tương ứng với số cổ phần được mua lại mà vẫn bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng và giá trị thực của vốn điều lệ không giảm thấp hơn mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng.”

Thể hiện rõ nguyên tắc thận trọng trong hoạt động mua lại cổ phần của tổ chức tín dụng. Đây là cơ chế kiểm soát quan trọng để bảo vệ sự ổn định tài chính và tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

Nhìn chung, các quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông trong ngân hàng không chỉ là một yêu cầu pháp lý cần thiết, mà còn là bước đi mang tính định hướng nhằm kiểm soát mức độ tập trung quyền lực và ngăn ngừa nguy cơ thao túng, đảm bảo mối quan hệ cân bằng giữa các cổ đông lớn và bộ máy điều hành trong quá trình quản trị ngân hàng.

———————————

Liên hệ Luật sư tư vấn:

Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.

1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Đoàn Luật sư Hà Nội,

email: vtpthanh@tlalaw.vn

2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Đoàn Luật sư Hà Nội;

email: tmle@tlalaw.vn

Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội

Website: https://tlalaw.vn/

Hotline: 0906246464

TTQ

Bài liên quan