BÌNH LUẬN BẢN ÁN SỐ 134/2025/DS-PT (TAND TỈNH GIA LAI)

Chủ đề: Nhầm lẫn về quyền sở hữu đất “Hộ gia đình” và hiệu lực một phần của Di chúc

1. Tóm tắt nội dung cốt lõi

  • Nguồn gốc đất: Thửa đất số 260 gồm 200m² đất ở và 768m² (thực đo 856,8m²) đất vườn. Nguồn gốc sâu xa là của ông bà nội, nhưng năm 1993 Nhà nước cấp GCNQSDĐ cho “Hộ ông Nguyễn Văn M” theo Nghị định 64/CP.
  • Sự kiện pháp lý: Năm 2018, cha mẹ (ông M, bà E) ra Văn phòng công chứng lập di chúc để lại toàn bộ tài sản (đất ở + đất vườn) cho con trai là ông K. Năm 2022, ông M chết.
  • Tranh chấp: Con gái (bà Y) khởi kiện đòi chia phần đất vườn vì cho rằng đây là đất cấp cho Hộ gia đình (7 người), cha mẹ không có quyền định đoạt toàn bộ.
  • Phán quyết: Tòa phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm, xác định đất vườn là của chung 7 người. Tuyên di chúc vô hiệu một phần (phần định đoạt lấn sang quyền của các con).

2. Phân tích các vấn đề pháp lý trọng tâm

2.1. Về nguồn gốc tài sản: Từ thừa kế chuyển sang cấp đất theo định suất

Đây là điểm mấu chốt nhất của bản án.

  • Quan điểm của Bị đơn (Bà E, ông K): Đất do ông bà nội để lại -> là tài sản riêng của vợ chồng ông M bà E -> Ông bà có toàn quyền lập di chúc cho ai tùy thích.
  • Nhận định của Tòa án: Dù nguồn gốc là của ông bà nội, nhưng thời điểm cấp GCN năm 1993, hộ ông M đã kê khai và được Nhà nước cân đối giao đất theo Nghị định 64/CP.
    • Hệ quả pháp lý: Khi đã đồng ý nhận đất theo Nghị định 64 (cấp đất nông nghiệp cho hộ gia đình/cá nhân trực tiếp sản xuất), quyền sở hữu được xác lập dựa trên số nhân khẩu có tên trong Sổ hộ khẩu nông nghiệp tại thời điểm đó.
    • Tại bản án: Tòa xác định năm 1993 hộ có 7 người. Do đó, mảnh đất vườn 856,8m² không còn là của riêng vợ chồng ông M nữa, mà là tài sản chung hợp nhất của 7 người (Mỗi người 1/7).

Bình luận: Tòa án đã áp dụng đúng nguyên tắc “thời điểm xác lập quyền”. Rất nhiều gia đình Việt Nam lầm tưởng rằng “Sổ đỏ đứng tên Bố thì là của Bố”. Thực tế với đất lúa/đất vườn cấp những năm 1990-2000 cho “Hộ”, Bố chỉ là người đại diện đứng tên, còn quyền lợi chia đều cho các thành viên (“định suất”).

2.2. Hiệu lực của Di chúc công chứng: Không phải cứ Công chứng là “thoát”

Vụ án này là bài học lớn cho hoạt động công chứng.

  • Di chúc năm 2018 được Văn phòng Công chứng Bình Định chứng nhận, xác định ông M bà E minh mẫn.
  • Tuy nhiên, Tòa tuyên di chúc vô hiệu một phần.
    • Lý do: Ông M và bà E chỉ có quyền định đoạt phần tài sản thuộc sở hữu của mình. Cụ thể:
      • Đối với 200m² đất ở: Là tài sản chung vợ chồng -> Có quyền định đoạt hết.
      • Đối với 856,8m² đất vườn: Ông bà chỉ có 2/7 phần quyền (mỗi người 1 suất). 5/7 phần còn lại là của 5 người con.
    • Phán quyết: Việc ông bà di chúc lại toàn bộ 856,8m² đất vườn cho ông K là hành vi định đoạt tài sản của người khác. Do đó, phần di chúc liên quan đến 5/7 diện tích đất vườn này bị vô hiệu.

2.3. Sự tách bạch giữa Đất ở và Đất nông nghiệp (Vườn)

Tòa án đã rất rạch ròi khi tách thửa đất 260 thành 2 chế độ pháp lý khác nhau:

  1. Đất ở (200m²): Công nhận là tài sản chung vợ chồng (nguồn gốc do ông bà để lại/tự tạo lập). -> Di chúc có hiệu lực.
  2. Đất vườn (856,8m²): Công nhận là tài sản Hộ gia đình (nguồn gốc Nghị định 64). -> Di chúc vô hiệu phần lớn.

Điều này dẫn đến kết quả: Ông K (người được hưởng di chúc) vẫn được hưởng phần lớn tài sản (Toàn bộ đất ở + 2/7 đất vườn của bố mẹ tặng + 1/7 đất vườn của bản thân + phần của bà Hứa Thị T tặng cho), nhưng không được “ăn trọn” phần đất vườn của các chị em gái khác.

3. Đánh giá về vai trò của các đương sự

  • Nguyên đơn (Chị Y): Đã rất am hiểu pháp luật (hoặc được tư vấn tốt) khi không tranh chấp đất ở (biết chắc sẽ thua vì đó là của bố mẹ) mà chỉ xoáy sâu vào đất vườn/đất nông nghiệp cấp cho Hộ. Đây là chiến thuật tố tụng thông minh.
  • Văn phòng Công chứng: Trong vụ này, Công chứng viên có phần thiếu sót khi không kiểm tra kỹ nguồn gốc đất (cấp theo Nghị định 64) và Sổ hộ khẩu tại thời điểm 1993. Nếu kiểm tra kỹ, Công chứng viên lẽ ra phải từ chối công chứng phần di chúc định đoạt toàn bộ đất vườn, hoặc yêu cầu các thành viên hộ gia đình làm văn bản thỏa thuận phân chia trước.

4. Bài học thực tiễn rút ra từ Bản án

  1. Đối với người dân: Nếu Sổ đỏ cấp cho “Hộ gia đình” (đặc biệt là đất lúa, đất vườn, đất rừng cấp giai đoạn 1993-2000), trước khi cha mẹ lập di chúc hoặc tặng cho, cần phải làm thủ tục đính chính hoặc văn bản thỏa thuận để xác định rõ phần quyền của các con có tên trong hộ khẩu thời đó. Tránh việc “cho cái mình không có”.
  2. Đối với người mua đất: Khi mua đất lúa/vườn của Hộ gia đình, bắt buộc phải yêu cầu tất cả thành viên có tên trong hộ khẩu thời điểm cấp đất ký tên, không chỉ vợ chồng chủ hộ.
  3. Về án phí: Bản án cũng lưu ý việc miễn án phí cho người cao tuổi (Bà E sinh năm 1940), đây là quyền lợi đương nhiên nhưng cần phải có đơn đề nghị.

Kết luận: Bản án 134/2025/DS-PT là một phán quyết thấu tình đạt lý, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các thành viên trong hộ gia đình đối với tư liệu sản xuất (đất nông nghiệp) mà Nhà nước đã giao, đồng thời tôn trọng quyền định đoạt của người chết đối với phần di sản thực sự thuộc về họ.


Liên hệ Luật sư tư vấn: Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.

  1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Giám đốc Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội,
    email: vtpthanh@tlalaw.vn;
  2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội;
    email: tmle@tlalaw.vn
    Địa chỉ: Tầng 7, số 06 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
    Website: https://tlalaw.vn/
    Hotline: 0906246464

Nguyễn Hiền Mai

Bài liên quan