
- Thông tin các bên
- Nguyên đơn:
Công ty Cổ phần đóng tàu Thủy sản H (Công ty H)
Địa chỉ trụ sở: Ngõ 103 đường Q, phường M, quận Ng, thành phố Hải Phòng
Văn phòng giao dịch: số 3/184 đường 2, phường Đi 1, Quận H, thành phố Hải Phòng
Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc – Bà Nguyễn Thị Ph
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Đào Văn Q, sinh năm 1960 (Theo văn bản ủy quyền ngày 19/8/2019)
2. Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1951 – Cán bộ pháp chế của Công ty Đóng tàu Thủy sản H (Theo văn bản ủy quyền ngày 26/9/2019)
- Bị đơn:
Công ty Cổ phần Tập đoàn M (Công ty M)
Địa chỉ trụ sở: SN 100 đường Tr, phường Đ, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Tổng giám đốc – ông Nguyễn Hữu L
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Lê Thị Th, sinh năm 1972
Địa chỉ: SN 18 H, phường Đ, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa.
- Tóm tắt nội dung vụ việc
Ngày 14/8/2017, Công ty M ký hợp đồng kinh tế số BB02/VT – 2017/MNG-TSHP với Công ty H để thuê tàu SunRise 689: Thời gian thuê:10 ngày kể từ ngày giao tàu; giá thuê là 5.970 USD/01 ngày; Mục đích thuê: Vận chuyển, làm bồn chứa nổi; vùng hoạt động theo giấy chứng nhận của tàu; bên thuê được quyền điều tàu, chở xăng dầu hợp pháp trong suốt thời gian thuê tàu. Việc giao tàu, chuyển tiền được thực hiện đầy đủ theo hợp đồng.
Ngày 31/8/2017, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Khánh Hòa tạm giữ hành chính tàu SUNRISE 689.
Ngày 10/01/2018, Cơ quan điều tra hình sự – Bộ Quốc phòng trả lại tàu cho Công ty H, vì sau khi xác minh Công ty H không có lỗi trong việc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Công ty H khởi kiện yêu cầu Công ty M phải bồi thường các khoản thiệt hại như Chi phí kéo tàu SUNRISE 689 từ cảng Cam Ranh về Hải Phòng tổng cộng: 18.630.360.187 đồng.
- Nhận định của Toà án
- Phán quyết của hội đồng xét xử sơ thẩm
Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của Công ty Cổ phần đóng tàu thủy sản H: Buộc Công ty cổ phần tập đoàn M phải bồi thường cho Công ty cổ phần đóng tàu thủy sản H với tổng số tiền là 17.870.701.387 đồng. Gồm: khoản tiền trong thời gian tàu bị tạm giữ; Chi phí đại lý, tàu lai, hoa tiêu, dầu; Chi phí đỗ cầu bến, tiền điện, tiền nước, …
Về án phí: Công ty Cổ phần tập đoàn M phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 125.870.000 đồng, Công ty Cổ phần đóng tàu Thủy sản H chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 34.386.000 đồng.
Căn cứ pháp lý: Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Điều 52; Điều 215; Điều 216; khoản 1 Điều 229; khoản 4 Điều 231 và Điều 261 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015; Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
- Nhận định của hội đồng xét xử hội đồng xét xử phúc thẩm
Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty H và Công ty M đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và đề nghị Tòa án công nhận. Xét thấy sự thỏa thuận giữa các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội; vì vậy Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Công ty H và Công ty M không thỏa thuận được về trách nhiệm chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm; vì vậy mỗi bên phải chịu 58.250.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm; Về án phí phúc thẩm: Công ty H và Công ty M mỗi công ty phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
- Phán quyết của hội đồng xét xử hội đồng xét xử phúc thẩm
Sửa Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 24/12/2019 của Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Công nhận sự thỏa thuận giữa Công ty Cổ phần đóng tàu thủy sản H và Công ty Cổ phần tập đoàn M.
Về án phí sơ thẩm: Công ty Cổ phần đóng tàu thủy sản H và Công ty Cổ phần tập đoàn M, mỗi bên phải chịu 58.250.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Về án phí phúc thẩm: Công ty Cổ phần đóng tàu thủy sản H và Công ty Cổ phần tập đoàn M, mỗi công ty phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Căn cứ pháp lý: Khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 215, 220, 223, 227 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015; Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
- Bài học rút ra từ vụ án
Ở đây, Toà án xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Căn cứ Điều 360, 361, 362 và 363 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Điều 361. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
2. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.
Điều 362. Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình.
Điều 363. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị vi phạm có lỗi
Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”.
Như vậy, bên có nghĩa vụ nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ, gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Trong bản án trên, công ty M đã không thực hiện đúng nghĩa vụ là trả lại tàu đúng hạn, gây ra tổn thất. Công ty M cho rằng công ty H cũng có lỗi vì nhân viên của công ty H giúp sức thực hiện hành vi trái pháp luật, hậu quả là tàu Sunsire 689 bị tạm giữ 132 ngày.
Mặt khác, Tổng giám đốc của Công ty M là bà Th thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng Công ty M không biết, do đó Công ty M không có lỗi nên không phải bồi thường.
Công ty Luật TNHH TLA có cùng quan điểm của Toà án cấp sơ thẩm, cho rằng, Công ty M phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra. Để có thể xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về Công ty M, cần đáp ứng đủ 03 điều kiện:
- Người gây ra thiệt hại là người của pháp nhân;
- Nơi công ty người gây thiệt hại làm việc phải có tư cách pháp nhân;
- Trong lúc người gây ra thiệt hại thì họ đang thực hiện công việc được pháp nhân giao cho.
Khi gây ra thiệt hại, bà Th là Tổng giám đốc của Công ty M và đang thực hiện nhiệm vụ của Công ty M là thuê tàu chở xăng, Công ty M có tư cách pháp nhân, do đó đối với thiệt hại gây ra, Công ty M phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, về vấn đề Công ty H có lỗi trong việc gây ra thiệt hại hay không, cần xem xét kỹ các tài liệu, chứng cứ chứng minh sự can thiệp của nhân viên Công ty H về: chức vụ, vai trò, hành vi, thời điểm thực hiện hành vi,… Để trừ đi phần lỗi do Công ty H gây ra (nếu có) theo Điều 362 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Công ty Luật TNHH TLA nhận thấy các đương sự nên ưu tiên tự thỏa thuận thay vì khởi kiện ra Toà án bởi lẽ ngoài thời gian, công sức, chi phí thuê luật sư,…thì án phí luôn là một vấn đề đáng được cân nhắc khi khởi kiện các vụ án hợp đồng kinh doanh thương mại với giá trị lớn: Cụ thể,
- Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án quy định: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận”.
- Khoản 5 Điều 29 Nghị quyết Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án quy định: “Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì đương sự kháng cáo phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm, về án phí dân sự sơ thẩm, nếu các đương sự tự thỏa thuận được với nhau thì các đương sự chịu án phí dân sự sơ thẩm theo thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm.”
Thông thường các tranh chấp kinh doanh thương mại rơi vào trường hợp có giá ngạch với mức án phí cao, như trong bản án trên, kết thúc vụ án, tổng cộng hai bên phải nộp hơn 100.000.000 đồng tiền án phí, chưa kể những chi phí khác trong quá trình kiện tụng. Việc quy định về mức án phí vừa nhằm duy trì bộ máy nhà nước, duy trì hoạt động bình thường của hệ thống tư pháp, đồng thời tạo ra tâm lý e ngại phải đóng án phí cao, từ đó giảm tình trạng tranh chấp, kiện tụng. Đồng thời, án phí theo quy định hiện hành khá cao nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách đồng thời giảm bớt tranh chấp Do đó, nếu chẳng may có tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra, các bên nên ưu tiên tự thương lượng, thỏa thuận để giảm bớt xung đột và tốn kém về tài chính, công sức. Sự tham gia của đội ngũ chuyên gia – luật sư là rất cần thiết để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đôi bên.
Tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một vấn đề pháp lý phổ biến, đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng về các yếu tố vi phạm, mức độ thiệt hại và trách nhiệm của các bên liên quan. Bài học rút ra từ vụ án này là các bên trong hợp đồng cần thực hiện đúng cam kết, đồng thời lưu ý đến việc soạn thảo hợp đồng chặt chẽ, quy định rõ ràng về trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Việc tuân thủ quy định pháp luật và có các biện pháp phòng ngừa rủi ro sẽ giúp doanh nghiệp, cá nhân hạn chế tranh chấp và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình.
————————————————
Liên hệ Luật sư tư vấn:
Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.
1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Giám đốc Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội,
email: vtpthanh@tlalaw.vn;
2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội;
email: tmle@tlalaw.vn
Công ty Luật TNHH TLA
Địa chỉ: Tầng 7, số 6 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
Website: https://tlalaw.com
Đinh Phương Thảo