Một số điểm mới và điểm bất cập về quy định thừa kế di chúc 

Thừa kế theo di chúc là một trong những nội dung quan trọng trong lĩnh vực pháp luật dân sự, được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự của Việt Nam. Đây là phương thức thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời, đồng thời đảm bảo quyền tự do định đoạt tài sản của người để lại di chúc. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mới tích cực, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn tồn tại một số bất cập, gây khó khăn trong quá trình áp dụng và giải quyết tranh chấp.

1. Điểm mới về quy định thừa kế theo di chúc trong BLDS 2015

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. BLDS 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 quy định về thừa kế theo di chúc quy định một số nội dung mới so với luật cũ như sau:

Thứ nhất, về nội dung của di chúc. 

Trong trường hợp lập di chúc, vì một số lý do mà sau khi di chúc được lập và viết thành văn bản mà phải tẩy xóa, theo theo khoản 3 Điều 631 BLDS 2015, pháp luật cho phép di chúc đã lập có thể tẩy, xóa, tuy nhiên, việc tẩy xóa, sửa chữa nội dung của di chúc chỉ được thực hiện khi người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa

Thứ hai,  về những người làm chứng cho việc lập di chúc

Cũng như BLDS 2005, BLDS 2015 cũng quy định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự không được làm chứng cho việc lập di chúc.Tuy nhiên, BLDS 2015 đã bổ sung thêm một đối tượng không được làm chứng cho việc di chúc đó là người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đây là đối tượng mà BLDS 2005 đã bỏ sót, tuy nhiên trên thực tế, vẫn xảy ra những tranh chấp dân sự phát sinh từ việc người có khó khăn trong nhận thức, hành vi đứng ra làm chứng cho việc lập di chúc, những người này xuất phát từ nhược điểm về thể chất, tinh thần, có khó khăn nhận thức của mình, vì vậy, nên họ cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình làm chứng cho di chúc. BLDS 2015 đã nắm bắt và quy định đây cũng là một trong những đối tượng không được làm chứng cho di chúc; từ đó sẽ góp phần hạn chế được tranh chấp phát sinh từ di chúc.

Thứ ba, về xử lý trường hợp di chúc bị thất lạc, hư hại

Theo quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015 thì nếu thời điểm mở thừa kế mà bản di chúc bị thất lạc thì sẽ chia theo pháp luật; nếu di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.

Tuy nhiên, BLDS 2015 đã quy định thêm một vấn đề, đó là trong thời hiệu yêu cầu chia dí ản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu. Quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chỉ của người để lại di sản thừa kế; thể hiện được bản chất của di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Thứ tư, bổ sung điều kiện đối với người được di tặng

Di tặng được hiểu là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. BLDS 2005 cũng có quy định cụ thể về việc di tặng tại Điều 671; tuy nhiên, chưa đề cập đến điều kiện đến người được di tặng. Khoản 2 Điều 646 BLDS 2015 đã quy định cụ thể về điều kiện đối với người được di tặng như sau:

+ Nếu người được di tặng là cá nhân: thì phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

+ Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trên đây là một số điểm mới cơ bản của BLDS 2015 về vấn đề di chúc và thừa kế theo di chúc. 

2. Một số bất cập của BLDS về thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo nội dung của bản di chúc mà người đó đã lập trước khi chết. Vấn đề thừa kế theo di chúc đã được quy định cụ thể từ Điều 624 đến Điều 648 trong BLDS 2015. Sau đây là một số bất cập của BLDS 2015 về thừa kế theo di chúc:

Thứ nhất, về chủ thể lập di chúc

Điều 625 BLDS 2015 về người lập di chúc quy định:

“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”

Quy định này là căn cứ để xác định chủ thể lập di chúc, chủ thể lập di chúc là người định đoạt tài sản của mình thông qua hành vi của chính mình. Vì vậy, điều kiện về độ tuổi và năng lực chủ thể của người lập di chúc là những điều kiện quan trọng, quyết định trong việc xác định giá trị pháp lí của di chúc.

Tuy nhiên, Điều 625 vẫn còn bất cập. Khoản 1 của Điều này quy định chưa bao quát cũng như chưa có sự thống nhất với những quy định về chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung và chủ thể trong giao dịch dân sự nói riêng. Điều 625 không quy định rõ về trường hợp người thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được lập di chúc hay không? Hay khi lập di chúc có cần phải được sự đồng ý của người đại diện hay không?

Còn khoản 2 của điều này, không những chưa chặt chẽ mà lại còn thiếu nội dung quan trọng là quy định về năng lực hành vi dân sự của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Mặt khác, trong quy định về việc phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ về việc những người này lập di chúc có nhiều điểm cần xem xét như là thời điểm, hình thức…của sự đồng ý này cụ thể là như thế nào?

Thứ hai, về di chúc miệng

 Di chúc miệng được quy định tại Điều 629 và khoản 5 Điều 630 như sau:

“Điều 629. Di chúc miệng

1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Điều 630. Di chúc hợp pháp

[…]5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

Theo khoản 5 Điều 630 thì di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ, tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện được quy định này rất khó. Khi trong gia đình có người đang hấp hối thường sẽ không còn ai bình tĩnh hay không ai suy nghĩ được vấn đề này, mặt khác, trong thời điểm này, thường sẽ chỉ có người trong gia đình, họ hàng thân thích có mặt. Có thể hiểu việc quy định như vậy của pháp luật là nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan, rõ ràng của việc lập di chúc miệng nhưng lại khá khó khăn trong việc áp dụng vào thực tế.

Thứ ba, về điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp

 Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 quy định

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”

Theo điểm a của điều khoản trên thì người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép nhưng căn cứ nào để xác định được người lập di chúc tại thời điểm đó là minh mẫn, sáng suốt? Ngoài ra, cũng rất khó để xác định được người lập di chúc có bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép hay không. Vì nội dung của điều khoản này không cụ thể nên việc áp dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bên cạnh đó, nếu có tranh chấp xảy ra cũng sẽ rất khó để giải quyết được thỏa đáng.

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số điểm mới và bất cập trong quy định về thừa kế di chúc, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam đã có những sửa đổi tiến bộ để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đặc biệt là về hình thức, nội dung và hiệu lực của di chúc. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn gặp nhiều khó khăn do một số quy định chưa rõ ràng hoặc chưa theo kịp những thay đổi trong đời sống xã hội. Những bất cập này không chỉ tạo ra khoảng trống pháp lý mà còn làm nảy sinh nhiều tranh chấp phức tạp liên quan đến quyền thừa kế.

————————————————

Liên hệ Luật sư tư vấn:

Luật TLA là một trong những đơn vị luật sư hàng đầu, với đội ngũ luật sư, cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, doanh nghiệp, hôn nhân và gia đình,… Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp mọi thắc mắc về pháp lý của bạn. Nếu bạn còn thắc mắc về nội dung này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp thắc mắc.

1. Luật sư Vũ Thị Phương Thanh, Giám đốc Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội, 

email: vtpthanh@tlalaw.vn;

2. Luật sư Trần Mỹ Lê, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH TLA, Đoàn Luật sư Hà Nội; 

email: tmle@tlalaw.vn

Công ty Luật TNHH TLA

Địa chỉ: Tầng 7, số 6 Dương Đình Nghệ, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội

Website: https://tlalaw.com

Đinh Phương Thảo

Bài liên quan